Howard Marks "Bãi Bỏ Các Quy Luật Kinh Tế”

Memos from Howard Marks là trong những bài viết hay nhất mà FinSuccess luôn theo dõi và đọc. Bài viết của Howard Marks – chủ tịch của Oaktree Capital Management về chủ đề “Bãi bỏ các quy luật kinh tế, thuế quan…” mới nhất vào ngày 18/06 tiếp tục rất xuất sắc và FinSuccess xin mạn phép dịch lại tiếng việt để cộng đồng được đọc dễ dàng hơn.

19 Jun, 2025
551
Chia sẻ bài viết này

Vào tháng 9 năm ngoái, tôi đã viết một bản ghi nhớ có tiêu đề Chúng Ta Có Nên Bãi Bỏ Các Quy Luật Kinh Tế Không?, trong đó tôi mô tả các nền kinh tế như những thực thể hữu cơ vận hành theo những quy luật nền tảng. Quy luật được biết đến nhiều nhất là quy luật cung – cầu: nói chung, con người sẽ mua nhiều hơn một thứ gì đó khi giá giảm và sản xuất nhiều hơn khi giá tăng. Một quy luật khác liên quan đến động lực khuyến khích: về cơ bản, con người sẽ phân bổ nguồn lực (như lao động) vào những hoạt động mang lại phần thưởng cao nhất. Những quy luật này, cũng như các quy tắc còn lại, đều rất dễ hiểu – không cần bằng tiến sĩ để nắm bắt chúng. Thật ra, chúng vốn là một phần của bản chất con người.

Tuy nhiên, đôi khi các chính phủ lại muốn có những kết quả khác với những gì một nền kinh tế thị trường tự do sẽ tạo ra. Để làm được điều đó, họ ban hành các quy định và luật lệ nhằm can thiệp hoặc thậm chí phủ nhận các quy luật kinh tế. Một số chính phủ còn tiến xa hơn nữa, áp dụng các mệnh lệnh hành chính từ nhà nước thay thế hoàn toàn các quy luật tự nhiên của nền kinh tế.

Kiểm Soát Giá Thuê

Một ví dụ điển hình đã được tôi bàn đến trong bản ghi nhớ tháng 9 là kiểm soát giá thuê nhà. Khi nhu cầu thuê căn hộ vượt quá nguồn cung, điều tất yếu là giá thuê sẽ tăng – có thể đến mức khiến những người sống tại khu vực đó không còn khả năng chi trả. Tuy nhiên, các chính trị gia được bầu lại thường mong muốn duy trì sự ổn định của cộng đồng. Họ muốn cử tri của mình tiếp tục có khả năng thuê nhà trong khu vực, thay vì bị thay thế bởi những người có thể trả giá cao hơn. Để làm được điều đó, họ thông qua các đạo luật nhằm giới hạn mức tăng giá thuê. Nhờ đó, những người vốn không đủ khả năng thuê nhà ở khu vực này nay có thể ở lại. Những người thuê nhà đó cảm thấy vui mừng – và điều đó khiến các chính trị gia hài lòng, bởi vì cử tri hạnh phúc có xu hướng tiếp tục bỏ phiếu cho người đương nhiệm.

Tuy nhiên, không phải ai cũng vui. Chủ nhà không vui vì họ không thể thu mức tiền thuê hợp lý như trong thị trường tự do, nên họ ngừng đầu tư vào tài sản của mình, thậm chí rút căn hộ khỏi thị trường. Các nhà phát triển bất động sản – những người lẽ ra có thể xây dựng thêm nhiều căn hộ – thì chùn bước vì e ngại rằng họ sẽ không thu được lợi nhuận đủ hấp dẫn. Cũng không vui là những người có đủ khả năng trả tiền thuê theo giá thị trường nhưng không thể tìm được chỗ ở vì các căn hộ đã bị chiếm giữ bởi những người thuê với giá rẻ hơn thị trường.

Có ít nhất hai điều không ổn trong tình huống này:

  • Chính phủ đang chọn người thắng và kẻ thua, thay vì để cho thị trường tự do quyết định. Trong trường hợp kiểm soát giá thuê, người chiến thắng là những người đang thuê căn hộ (và có thể là các chính trị gia đương nhiệm), còn người thua là chủ nhà, nhà phát triển và những người đang tìm nhà thuê. Các chính trị gia có thể nói rằng họ chỉ đang cố gắng tạo sự công bằng cho người dân hiện tại, nhưng rõ ràng là họ đang gây bất công cho những nhóm khác.

  • Tác động tiêu cực lên toàn xã hội. Người thuê sống trong căn hộ kiểm soát giá có trong tay một tài sản giá trị – một chỗ ở với giá hời. Nhưng tài sản đó không thể chuyển nhượng hay quy đổi thành tiền; họ chỉ có thể hưởng lợi khi tiếp tục sống ở đó. Vì vậy, họ thường không muốn chuyển đi – làm giảm sự linh hoạt di chuyển của chính họ và của toàn xã hội. Kiểm soát giá thuê cũng làm nản lòng việc cải tạo nhà ở hiện hữu và xây dựng mới, khiến nguồn cung nhà ở không đáp ứng đủ cả về chất lượng lẫn số lượng so với nhu cầu cộng đồng. Nói cách khác, chính phủ có thể giới hạn mức giá mà chủ nhà được phép thu, nhưng không thể buộc các nhà phát triển xây dựng thêm nhà mới. Những yếu tố này làm giảm phúc lợi xã hội nói chung và cản trở việc phân bổ nguồn lực đến nơi sử dụng hiệu quả nhất.

Bảo hiểm cháy rừng tại California

Thật không may, vào đầu năm nay – sau các vụ cháy rừng ở miền Nam California – chúng ta đã chứng kiến một hệ quả kinh tế nghiêm trọng khi cố tình can thiệp và phớt lờ các quy luật kinh tế. Khi lửa thiêu rụi các cộng đồng ở Pacific Palisades và Altadena, hàng ngàn người đã mất nhà cửa, trong đó có cả một tá nhân viên của Oaktree. Bên cạnh sự gián đoạn nghiêm trọng trong cuộc sống cá nhân, nhiều người trong số họ còn gánh chịu hậu quả tài chính vô cùng nặng nề. Nguyên nhân là do họ không có bảo hiểm hoặc được bảo hiểm không đầy đủ, phần lớn bắt nguồn từ các chính sách của cơ quan quản lý bảo hiểm bang California.

Phần lớn chính quyền California hiện do Đảng Dân chủ kiểm soát, vốn có xu hướng can thiệp mạnh vào các vấn đề kinh tế. Đặc biệt, khi đảng này nắm siêu đa số tại cơ quan lập pháp bang và không e ngại các đối thủ Cộng hòa, các chính trị gia Dân chủ không cần phải điều chỉnh hành vi để thông qua luật hoặc giữ ghế. Và cũng giống như việc họ ủng hộ kiểm soát giá thuê (California cũng có rất nhiều luật như vậy), chính quyền bang đã tìm cách “giúp” người dân bằng cách giới hạn mức phí bảo hiểm cháy rừng mà các công ty có thể thu.

Trong bối cảnh đó, tôi để trợ lý biên tập mới – có sử dụng AI – là Perplexity, tóm tắt cho bạn phần bối cảnh. Tôi có đơn giản hóa định dạng và thêm nhấn mạnh, nhưng không thay đổi nội dung gốc. Những gì bạn sắp đọc gần như là điều tôi cũng sẽ viết ra sau một đến hai tiếng làm việc:

Trước các vụ cháy rừng tàn phá năm 2025, thị trường bảo hiểm cháy rừng ở California đã lâm vào khủng hoảng, do bị kìm hãm bởi các quy định pháp lý, việc rút lui của các công ty bảo hiểm và rủi ro cháy rừng ngày càng gia tăng.

  • Các công ty bảo hiểm không được phép dùng mô hình dự báo thiên tai để định giá bảo hiểm, mà bị buộc phải tính phí dựa trên tổn thất trung bình trong 20 năm trước đó. Khi cháy rừng ngày càng thường xuyên và dữ dội, cách định giá này trở nên sai lệch, vì dữ liệu quá khứ không còn phản ánh đúng rủi ro tương lai.
  • Luật pháp cũng cấm các công ty bảo hiểm tăng phí để phản ánh chi phí tái bảo hiểm tăng, khiến họ không thể định giá chính xác theo mức độ rủi ro thực tế.
  • Nhiều công ty bảo hiểm lớn đã rút khỏi thị trường California hoặc ngừng bán hợp đồng mới tại các khu vực dễ cháy:
    • Chubb ngừng cấp bảo hiểm cho nhà giá trị cao từ năm 2021.
    • Allstate theo sau vào năm 2022.
    • Và State Farm – công ty bảo hiểm nhà lớn nhất bang – ngừng cấp hợp đồng mới vào năm 2023.
    • Đến năm 2024, State Farm tuyên bố không gia hạn hơn 70.000 hợp đồng trên toàn bang, trong đó có hàng ngàn hợp đồng tại những khu vực rủi ro cao như Pacific Palisades và Altadena – chỉ vài tháng trước khi cháy rừng 2025 xảy ra. 
    • Các công ty khác như Tokio Marine America và các công ty con cũng rút khỏi thị trường trong năm 2024. 
  • Những người vẫn giữ được hợp đồng thì phải chịu mức phí tăng chóng mặt – ví dụ: từ 4.500 USD lên đến 18.000 USD/năm. Do đó, nhiều chủ sở hữu mất bảo hiểm hoặc không còn đủ khả năng chi trả, dẫn đến tình trạng thiếu bảo hiểm trên diện rộng. Đến khi cháy rừng năm 2025 xảy ra, chỉ còn chưa đến 25% tài sản bị ảnh hưởng được bảo hiểm đầy đủ
  • Kế hoạch FAIR do bang hậu thuẫn – vốn là phương án bảo hiểm "cuối cùng" – chứng kiến lượng người đăng ký tăng mạnh khi bảo hiểm tư nhân rút lui. Tuy nhiên, FAIR Plan vừa đắt hơn vừa giới hạn quyền lợi, và thường cần thêm hợp đồng bổ sung để bảo vệ đầy đủ. Mức độ rủi ro mà FAIR Plan gánh chịu do cháy rừng cũng tăng vọt, làm dấy lên lo ngại về khả năng phá sản nếu tiếp tục có mùa cháy thảm họa. 
  • Luật bang quy định có lệnh cấm hủy hợp đồng hoặc không gia hạn trong vòng 1 năm sau khi có tình trạng khẩn cấp được tuyên bố, nhưng điều này không ngăn được các công ty rút lui hoặc từ chối gia hạn trước khi thảm họa xảy ra.
  • Quy trình phê duyệt tăng phí ngày càng chậm: Thời gian trung bình tăng từ 157 ngày (2013–2019) lên 293 ngày (2020–2022), khiến các công ty bảo hiểm thất vọng và thị trường bất ổn.

Như Perplexity đã chỉ ra, các công ty bảo hiểm bị cấm phản ánh đúng thực tế gia tăng tần suất và mức độ nghiêm trọng của cháy rừng trong mức phí, và cũng không được chuyển phần chi phí tăng từ tái bảo hiểm sang cho khách hàng. Nếu một căn nhà trị giá 5 triệu USD có xác suất 1% bị cháy trong năm, và cơ quan quản lý chỉ cho phép tính phí 25.000 USD/năm, bạn sẽ làm gì? (Tôi không cần Perplexity cũng biết rằng công ty bảo hiểm phải đối mặt với rủi ro kỳ vọng là 50.000 USD: 1% của 5 triệu). Câu trả lời rất đơn giản: Bạn sẽ không bán bảo hiểm đó.

Bài học ở đây cũng giống như kiểm soát giá thuê, nhưng được minh họa rõ ràng hơn nhờ thảm họa cháy rừng. Cũng như giá thuê, bạn có thể giới hạn mức phí bảo hiểm, nhưng bạn không thể buộc các công ty phải cung cấp dịch vụ với mức giá đó. Trong trường hợp này, nỗ lực của chính phủ nhằm áp đặt giải pháp phi thị trường đã khiến hàng ngàn người không thể tiếp cận bảo hiểm, và cuối cùng phải chịu hậu quả vô cùng đau đớn.

Còn gì nữa không? Có chứ: Thuế quan thì sao?

Đoạn mở đầu dài 2 trang rưỡi ở trên chỉ để dẫn đến chủ đề chính của tôi: thuế quan. Kể từ “Ngày Giải Phóng” 2/4 đến nay đã hai tháng, chúng ta đã có thời gian suy ngẫm, nên tôi sẽ cố gắng trình bày một cách đầy đủ (và cũng cố gắng giữ quan điểm khách quan, phi chính trị).

Trước tiên, thuế quan là gì? Theo từ điển Merriam-Webster, đó là “bảng thuế do chính phủ áp đặt lên hàng hóa nhập khẩu, và ở một số quốc gia, cả hàng xuất khẩu.” Nói cách khác, thuế quan là một loại thuế. Doanh nghiệp xuất khẩu, quốc gia xuất khẩu, hoặc doanh nghiệp nhập khẩu có thể chọn trả một phần hoặc toàn bộ thuế quan – nhưng chỉ nếu họ sẵn sàng chi tiền để giữ thị phần ở nước nhập khẩu. Nếu không, người tiêu dùng cuối cùng sẽ là người trả giá, thông qua việc tăng giá bán.

Tại sao Mỹ lại tăng thuế quan?

Lý do cho lập trường ủng hộ thuế quan của cựu Tổng thống Trump không gì khác ngoài niềm tin lâu dài rằng thâm hụt thương mại hàng hóa của Mỹ (lượng nhập khẩu vượt xuất khẩu – 1,2 nghìn tỷ USD vào năm 2024) là bằng chứng cho thấy các quốc gia khác đang "lợi dụng" chúng ta. Như ông ấy thường nói: “Chúng ta đang mất 5 tỷ USD mỗi ngày vì thương mại.”

Tôi sẽ tạm gác lại quan điểm của mình rằng thương mại quốc tế không phải là hành vi lừa đảo – nó thực chất là giao dịch tự nguyện và công bằng: quốc gia xuất khẩu nhận tiền, còn quốc gia nhập khẩu nhận hàng hóa mình mong muốn. Tôi cũng bỏ qua luôn thặng dư thương mại dịch vụ 290 tỷ USD trong năm 2024 của Mỹ – bao gồm các dịch vụ mà các quốc gia phát triển thường xuất khẩu như tài chính, truyền thông, công nghệ thông tin và sở hữu trí tuệ.

Thuế quan nhằm đạt được điều gì?

Trong bản ghi nhớ ngày 9/4 Nobody Knows (Yet Again), tôi phỏng đoán các mục tiêu của Tổng thống Trump khi áp thuế như sau:

  • Hỗ trợ ngành sản xuất Mỹ
  • Hạn chế hàng nhập khẩu
  • Khuyến khích xuất khẩu
  • Thu hẹp hoặc xóa bỏ thâm hụt thương mại
  • Đảm bảo chuỗi cung ứng an toàn hơn thông qua tái nội địa hóa
  • Ngăn chặn các hành vi thương mại không công bằng nhắm vào Mỹ
  • Ép các quốc gia khác phải đàm phán
  • Tạo nguồn thu cho ngân sách liên ban

Như tôi từng viết, tất cả 8 mục tiêu trên đều hợp lý, và thuế quan có vẻ như là công cụ có thể giúp đạt được chúng. Bởi vì về bản chất, thuế quan làm tăng giá hàng hóa nhập khẩu, và điều đó là bước đầu tiên để thực hiện những mục tiêu trên. Nhưng câu hỏi quan trọng trong kinh tế học là: những tác động phụ nào sẽ xuất hiện?

Một chút lý thuyết thương mại

Giả sử có hai quốc gia bị ngăn cách bởi một bức tường. Ở quốc gia A, người lao động được trả 100 USD/giờ, và một chiếc ô tô có giá 50.000 USD. Ở quốc gia B, người lao động chỉ nhận 50 USD/giờ, và chiếc ô tô tương tự chỉ có giá 35.000 USD. Vì không có thương mại xuyên biên giới nên mọi chuyện đều ổn. Nhưng nếu bức tường được gỡ bỏ, một doanh nhân nhanh nhạy sẽ mua xe từ quốc gia B và bán sang quốc gia A với giá 36.000 USD (bao gồm 1.000 USD chi phí vận chuyển). Mức lương và giá cả chênh lệch như vậy – điều mà kinh tế học gọi là “mất cân bằng” (disequilibria) – không thể kéo dài nếu hàng hóa và lao động có thể di chuyển. Thế là theo thời gian, người lao động từ B sẽ di cư sang A để nhận mức lương cao hơn. Điều đó khiến lương ở A giảm (do cung lao động tăng), còn lương ở B tăng (do thiếu lao động), và cuối cùng giá xe ở B không còn rẻ nữa. Thuế quan chính là bức tường nhân tạo – nó ngăn cản cạnh tranh từ bên ngoài, cho phép các nhà sản xuất nội địa bán hàng ngay cả khi sản phẩm của họ kém cạnh tranh hơn. 

Giả sử chúng ta đạt được 2 mục tiêu đầu tiên (hỗ trợ sản xuất và giảm nhập khẩu), vốn là kết quả dễ thấy nhất của cái gọi là chủ nghĩa bảo hộ, vì thuế quan giúp “bảo vệ” ngành công nghiệp nội địa khỏi bị cạnh tranh từ nước ngoài. Khi hàng nhập khẩu bị làm cho đắt hơn (bởi thuế), hoặc bị cấm hoàn toàn, các nhà sản xuất nội địa sẽ phải cạnh tranh ít hơn.

Điều này tốt cho các nhà sản xuất trong nước và người lao động của họ, nhưng chuyện gì xảy ra tiếp theo?

  1. Giá cả sẽ tăng – đã có báo cáo cho thấy các doanh nghiệp trong nước đang tăng giá, lợi dụng mức giá nhập khẩu tăng.

  2. Họ có thể sản xuất hàng hóa kém chất lượng hơn, vì không còn phải cạnh tranh với hàng nhập khẩu

  3. Vì không còn lo cạnh tranh với lao động giá rẻ từ nước ngoài, người lao động trong nước có thể thành lập công đoàn mạnh, đòi hỏi lương cao – điều này làm chi phí sản xuất nội địa càng cao hơn.

=> Kết quả cuối cùng: Người tiêu dùng phải trả giá cao hơn, và thậm chí xuất khẩu có thể sụt giảm, vì các nhà sản xuất trong nước không còn đủ sức cạnh tranh toàn cầu.

Mỹ có đúng khi tăng thuế quan không?

Khi tôi còn nhỏ, cụm từ “ô tô ngoại” gần như là một điều hiếm thấy. Hai chiếc Volkswagen đầu tiên đến Mỹ vào năm 1949. Chúng nằm trong khoảng 7.500 chiếc xe được nhập khẩu trong năm đó, chỉ chiếm 0,03% – tức là ba phần vạn – tổng số xe được bán ở Mỹ. Thế nhưng đến năm 2024, theo một bảng dữ kiện do Nhà Trắng công bố vào tháng 3, một nửa trong tổng số 16 triệu xe bán ra tại Mỹ là xe nhập khẩu, trong đó có 500.000 xe Volkswagen (theo usimportdata.com). Vì sao lại như vậy?

  • Có nhiều lý do dẫn đến thành công của các hãng xe ngoại, bao gồm chất lượng, kỹ thuật và tiếp thị, nhưng một lý do chủ yếu là người tiêu dùng nhận thấy xe sản xuất tại Mỹ đắt hơn xe nhập khẩu, nhưng không tương xứng về chất lượng. (Chiếc xe đầu tiên của tôi, Oldsmobile Cutlass, có giá 3.200 USD năm 1965, trong khi một chiếc Volkswagen Beetle chỉ bằng một nửa). 

  • Công nhân ngành ô tô Mỹ được trả lương cao hơn công nhân ở Đức hay Nhật, chưa kể gói phúc lợi đặc biệt – như bảo hiểm y tế trọn đời – được cho là vào năm 2008 có giá trị lên tới 1.900 USD mỗi xe. Đây là một gánh nặng cạnh tranh khổng lồ. Xe Mỹ bán rất chạy cho đến khi thương mại quốc tế phát triển và hàng nhập bắt đầu đổ vào, buộc ba ông lớn ngành ô tô Mỹ phải đối mặt với hiện thực kinh tế, khi họ vẫn gánh chi phí cao và sản phẩm đã lỗi thời. (Cũng nên lưu ý, thành công của Volkswagen tại Mỹ được cho là có phần nhờ trợ cấp từ chính phủ Đức.)

  • Kết quả là doanh số giảm sút cho các nhà sản xuất trong nước và sản xuất được chuyển ra nước ngoài. Liệu điều này có thể tránh được không? Chỉ khi công nhân Mỹ chấp nhận mức lương tương đương các nước khác. Nếu không, việc chuyển nhà máy ra nước ngoài là khó tránh. Các hãng ô tô Mỹ có thể đã phản ứng bằng cách nâng cao chất lượng hoặc năng suất, nhưng khả năng bù đắp được cấu trúc chi phí cao của họ trong dài hạn là rất thấp. 

Niall Ferguson, nhà sử học kinh tế người Anh, có một podcast rất hay phát hành ngày 10/4 – ngay sau khi Mỹ tăng thuế. Trong đó, ông nói: "Tất cả các nền kinh tế đã công nghiệp hóa – từ cuối thế kỷ 18 đến thế kỷ 20 – đều đạt đỉnh vào một thời điểm nào đó, thường là khi GDP bình quân đầu người đạt khoảng 40.000 USD (theo giá trị hiện tại), sau đó tỷ trọng việc làm trong lĩnh vực sản xuất bắt đầu giảm. Xu hướng này giống nhau ở mọi quốc gia phát triển: người dân rời khỏi nhà máy, chuyển sang các công việc trong lĩnh vực dịch vụ – ít nặng nhọc hơn và đòi hỏi học vấn cao hơn." Nói cách khác, sự phát triển kinh tế đưa các quốc gia đi từ nông nghiệp → sản xuất → dịch vụ. Thành công của kinh tế Mỹ khiến người lao động rời khỏi khu vực sản xuất. Hệ quả là, hiện nay chỉ còn 8% việc làm phi nông nghiệp tại Mỹ nằm trong lĩnh vực sản xuất, giảm từ khoảng 30% năm 1950. Theo Ferguson, điều này không liên quan nhiều đến ngành ô tô hay các hành vi thương mại không công bằng, và không phải vì người ta không tìm được việc sản xuất: theo Cục Thống kê Lao động Mỹ, hiện có khoảng 400.000 vị trí sản xuất còn trống, nhưng không ai vội vàng xin vào.

Rõ ràng là, một quốc gia không thể vừa dẫn đầu về thu nhập bình quân và mức sống, vừa kỳ vọng tiếp tục dựa vào sản xuất công nghiệp làm nền tảng kinh tế chính. Và chúng ta cũng không thể quay lại thời kỳ đó. Ferguson nói thêm: "Chúng ta không thể quay lại thập niên 1950 – hay 1910 – về mặt xã hội hay kinh tế. Không tồn tại một thế giới mà các chính sách hiện tại có thể giúp tái công nghiệp hóa nước Mỹ, vì sản xuất ở đây đắt đỏ hơn gần như bất kỳ nơi nào khác." Tuy nhiên, trong một số trường hợp nhất định, chính phủ có thể quyết định rằng nên sản xuất hàng hóa trong nước và bảo vệ một số ngành nhất định. Ví dụ rõ ràng là an ninh quốc gia. Chúng ta có thể kết luận rằng quân đội không nên mua vũ khí từ nước ngoài, vì không nên phụ thuộc vào nhà cung cấp từ những quốc gia có thể là đối thủ trong tương lai. 

 Nếu bạn cần thêm lý do, Joe Nocera đã viết trong bài báo ngày 6/5 trên The Free Press có tên “Cha đẻ trí thức của chủ nghĩa bảo hộ” rằng: "Nếu ai còn nghi ngờ việc Mỹ đã đặt an ninh vào rủi ro khi để Trung Quốc thống trị sản xuất, thì COVID đã dập tắt nghi ngờ đó. Khi xem xét kỹ, chúng ta thấy Mỹ cần Trung Quốc để đóng tàu, khai thác khoáng sản hiếm, sản xuất chip bán dẫn và hàng ngàn sản phẩm thiết yếu khác. Như Rana Foroohar nói: “Cuối cùng mọi người cũng tỉnh ra khi nhận ra rằng 80% chuỗi cung ứng của chúng ta đã bị chuyển ra nước ngoài – và vào tay đối thủ chiến lược lớn nhất của chúng ta.” 

Thuế quan cũng có thể hợp lý nếu dùng để bảo vệ các ngành có tính biểu tượng, gắn liền với bản sắc quốc gia. Ví dụ: Thụy Sĩ có thể cấm nhập loại phô mai trắng có lỗ; Pháp có thể cấm nhập rượu vang trắng có ga.

Cuối cùng, thuế quan cũng có thể áp dụng với các quốc gia có hành vi thương mại không công bằng, như trợ cấp cho doanh nghiệp trong nước, hoặc ngăn cản doanh nghiệp nước ngoài tiếp cận thị trường của họ. Những người ủng hộ thuế quan nói rằng các quốc gia này đã làm như vậy suốt nhiều năm, dẫn đến thâm hụt thương mại khổng lồ của Mỹ. Chính phủ có thể áp thuế trong những trường hợp như vậy, dù có can thiệp vào thị trường tự do. Trước “Ngày Giải Phóng”, nhiều người đã kêu gọi thuế quan có chọn lọc (targeted tariffs) – chỉ nhắm vào các lĩnh vực hoặc quốc gia nhất định để đạt được các mục tiêu chiến lược. Nhưng đó khác với việc đánh thuế tất cả mọi thứ từ mọi quốc gia. Chính phủ không thể buộc mọi thứ phải sản xuất trong nước mà không phải trả giá.

Bởi vì thuế quan chủ yếu nhằm buộc hàng hóa phải được sản xuất trong nước, dù hàng hóa ngoại rẻ hơn hoặc tốt hơn (hoặc cả hai). Chính phủ có thể làm điều đó bằng cách dựng lên hàng rào thuế quan, khiến hàng hóa ngoại đắt hơn hoặc không vào được thị trường. Điều đó sẽ bảo vệ ngành sản xuất và người lao động trong nước, nhưng đánh đổi bằng việc người tiêu dùng trong nước phải chịu thiệt (và cả nền kinh tế toàn cầu).Đó chính là sự đánh đổi – điều mà thị trường tự do luôn buộc chúng ta phải chấp nhận, nhưng những người muốn can thiệp và điều khiển nền kinh tế thì lại cố tình phớt lờ.

Kỷ luật tài khoá & Quỹ An sinh xã hội

Còn có “quy luật kinh tế” nào nữa mà ta có thể bỏ qua không?

Tôi xin tạm gác chủ đề "bãi bỏ các quy luật kinh tế" lại để nói ngắn gọn về việc các chính trị gia đắc cử ngày càng sẵn sàng phớt lờ những quy luật này. Sau đây là hai ví dụ tiêu biểu.

1. Kỷ luật tài khóa

Tóm lại, chính phủ Mỹ thường xuyên chi tiêu nhiều hơn thu ngân sách, và tôi cho rằng đây là một trong những điều tồi tệ nhất đang diễn ra ở đất nước này. Như tôi đã đề cập trong bản ghi chú Nobody Knows (Yet Again), Mỹ làm được điều này vì thế giới đã cho chúng ta vay gần như không giới hạn, với lãi suất rất thấp. Kết quả là, nước Mỹ đã thâm hụt ngân sách trong 41/45 năm qua, và 5 năm gần đây năm nào cũng thâm hụt hơn 1.000 tỷ USD. Nếu em rể của bạn tiêu xài kiểu đó, bạn sẽ gọi anh ta là vô trách nhiệm.

Nhà kinh tế học John Maynard Keynes nói vào thập niên 1930 rằng nếu nền kinh tế tăng trưởng quá chậm không tạo đủ việc làm, thì chính phủ nên chi tiêu thâm hụt để kích thích tăng trưởng và tạo việc làm. Nhưng, khi nền kinh tế phục hồi, thì chính phủ nên tạo ra thặng dư để trả nợ. Ngày nay, các chính trị gia Mỹ – thuộc cả hai đảng – đã quen tiêu tiền bất chấp thâm hụt, và khái niệm thặng dư đã bị quên lãng.

  • Ví dụ: năm tài khóa 2024, Mỹ thâm hụt khoảng 1.800 tỷ USD, tương đương 6,4% GDP, trong thời kỳ tăng trưởng kinh tế. Nếu tiếp tục vay và tăng nợ công nhanh hơn tăng trưởng GDP, thì chi phí lãi vay – ngay cả khi lãi suất không đổi – cũng sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong ngân sách, tạo thêm thâm hụt và nợ. Và nếu lãi suất tăng (do lạm phát hoặc tín nhiệm quốc gia xấu đi), thì nợ cũ lãi suất thấp sẽ phải đảo nợ với lãi suất cao hơn, làm chi phí bùng nổ. Bao lâu nữa thì chúng ta không còn khả năng vay mãi với lãi suất thấp?

Chưa ai biết khi nào, nhưng chắc chắn đến một lúc nào đó tín dụng sẽ không còn vô hạn. Warren Buffett nói tại đại hội cổ đông Berkshire Hathaway ngày 3/5 rằng:  “Chúng ta đang vận hành với mức thâm hụt không bền vững. Không ai biết điều đó sẽ kéo dài 2 hay 20 năm, vì chưa từng có quốc gia nào giống như Mỹ. Nhưng chắc chắn điều này không thể kéo dài mãi mãi... đến một lúc nào đó, mọi thứ sẽ vượt ngoài kiểm soát.” Việc sửa sai sẽ rất khó, như Buffett nói thêm, vì chúng ta đã quen xài phung phí, và lãnh đạo thì chiều lòng cử tri bằng cách giữ thuế thấp. Có hai cách duy nhất để giải quyết: giảm chi tiêu và/hoặc tăng thu ngân sách. Nhưng chẳng ai muốn bị tăng thuế, cũng chẳng ai muốn bị cắt phúc lợi. Do đó, ít ai ở Washington thực sự nghiêm túc xử lý vấn đề. 

Tổng thống Trump đã cố giảm “lãng phí, gian lận và tham nhũng” bằng cách giao cho Elon Musk và Bộ Hiệu quả Chính phủ, nhưng tiết kiệm từ 2.000 tỷ USD kỳ vọng chỉ còn dưới 1.000 tỷ, và cuối cùng chỉ vài trăm tỷ, tức rất nhỏ so với quy mô vấn đề. Trong khi đó, Hạ viện đã thông qua một dự luật gia hạn các khoản cắt giảm thuế từ năm 2017, vốn đáng lẽ sẽ hết hiệu lực trong năm nay. Việc gia hạn này sẽ làm thâm hụt ngân sách tăng đáng kể, và còn đi kèm nhiều điều khoản cắt giảm nguồn thu như: miễn thuế giờ làm thêm và tiền tip, tăng chuẩn khấu trừ thuế cho người già, v.v. CBO (Văn phòng Ngân sách Quốc hội) ước tính dự luật này sẽ làm tăng thêm 2.400 tỷ USD vào thâm hụt trong 10 năm tới. Làm sao Hạ viện có thể thông qua dự luật vào tháng 5/2025 mà không tăng thuế cũng không cắt chi tiêu? Lý do vẫn vậy: họ tin rằng cắt giảm thuế sẽ kích thích kinh tế, từ đó thâm hụt và nợ sẽ giảm tương đối theo GDP. Nhưng chiến lược này chưa từng hiệu quả. Chúng ta đơn giản là không giải quyết vấn đề thâm hụt. Không giảm chi, không tăng thu. Nguyên tắc “chi tiêu không được vượt thu ngân sách” giờ đã bị quăng ra ngoài cửa sổ.George F. Will viết trong một bài báo ngày 28/5 trên The Washington Post rằng một trong 9 nguyên lý của chủ nghĩa cấp tiến là:

“Vay mượn vô hạn từ thế hệ tương lai để tài trợ cho tiêu dùng của người dân hiện tại.” Tôi cho rằng điều đó phản ánh rất đúng tư duy chi phối Washington hiện nay, trừ vài người thực sự coi trọng kỷ luật tài chính.

2. Quỹ An sinh xã hội (Social Security)

Chương trình Social Security không được thiết kế như quỹ hưu trí đầu tư mà là hệ thống “trả ngay” (pay-as-you-go). Tức là: thuế bạn đóng hôm nay dùng để chi trả cho người đang nghỉ hưu, và khi bạn nghỉ hưu, tiền của bạn sẽ đến từ thuế mà lớp lao động sau bạn đóng.

Trước đây, khi số người đi làm đông hơn số người nghỉ hưu, quỹ thu nhiều hơn chi, phần dư được tích lũy vào Quỹ An sinh xã hội (Trust Fund). Ngày nay, số người đóng thuế ít hơn số người nhận lương hưu, trong khi tuổi thọ tăng lên nhưng thời gian đóng thuế thì không tăng. Kết quả: thu thuế không đủ chi trả, và phải rút từ quỹ tích lũy. Toán học rất đơn giản: quỹ có một số tiền nhất định, có lãi suất trái phiếu kho bạc. Nếu tính tăng trưởng dân số, tuổi thọ, thu – chi, ta có thể ước tính chính xác thời điểm quỹ cạn kiệt nếu không hành động sớm. 

Năm đó là 2035Khi đó, chỉ có 2 lựa chọn:

(a) Cắt lương hưu để chỉ chi đúng phần thu thuế, và theo ước tính, chỉ đủ chi khoảng 79% cam kết hiện tại.

(b) Lấy ngân sách quốc gia bù vào phần thiếu, càng khiến thâm hụt ngân sách trầm trọng thêm.

Không có gì trong đoạn trên là phỏng đoán. Đó là thực tế. Có nhiều cách để giải quyết:

  • Tăng thu 
  • An sinh xã hội
  • Tăng trần thu nhập chịu thuế (hiện là 176.100 USD/năm)
  • Tăng tuổi nghỉ hưu
  • Giảm quyền lợi nhận được
  • Giảm tốc độ tăng lương hưu theo lạm phát
  • Áp dụng kiểm tra thu nhập: người giàu sẽ bị cắt hoặc giảm lương hưu

=> Vấn đề là: tất cả các giải pháp đều không được lòng cử tri. Vì vậy, cả hai đảng đều đồng thuận im lặng: “Đừng đụng vào Social Security.” Kết quả là không ai làm gì suốt hơn một thập kỷ qua.

Nếu trong công ty bạn, các lãnh đạo nhắm mắt làm ngơ trước vấn đề rõ ràng như vậy, bạn sẽ nghĩ gì?

Thế hệ Baby Boomer – sinh từ 1946 đến 1964 – rất đông, khá giàu và đi bầu đông đảo, chiếm 38% phiếu trong bầu cử tổng thống 2020. Họ đang hoặc sắp nghỉ hưu. Chính trị gia không ai dám đụng tới quyền lợi của họ. Vì vậy, họ trì hoãn. Và hệ quả là: Quỹ An sinh xã hội chắc chắn sẽ cạn kiệt chỉ trong 10 năm tới. Về phần tôi, tôi bắt đầu nhận lương hưu từ năm 70 tuổi, mốc trễ nhất có thể. Hiện tôi nhận 4.612 USD mỗi tháng. Thật là lố bịch: tôi và những người giàu cùng thế hệ không nên được nhận phúc lợi này. Cũng như vấn đề nợ công, vấn đề này sẽ bị đẩy sang cho con cháu giải quyết. Đây là vấn đề nghiêm trọng về công bằng giữa các thế hệ, nhưng không ai đoái hoài

Các chính trị gia có thể tin rằng hiện trạng này có thể kéo dài mãi mãi – hoặc đúng hơn là họ chỉ hy vọng mình sẽ . rời nhiệm sở trước khi mọi thứ sụp đổ.bCách hành xử ở Washington về thâm hụt tài khóa và Social Security khiến tôi nhớ đến câu chuyện người đàn ông nhảy từ tầng 20. Khi đi qua tầng 10, ông ta nói: “Cho đến giờ, vẫn ổn mà.”

Tóm lại: Khi được phép vận hành, các quy luật kinh tế tạo ra các động lực khuyến khích đổi mới, nâng cao năng suất và hiệu quả, từ đó tạo ra sự thịnh vượng và tối ưu hóa phúc lợi xã hội nói chung.

  • Ví dụ, toàn cầu hóa mang lại lợi ích của nguyên lý “lợi thế so sánh”, theo đó mỗi quốc gia sản xuất những sản phẩm mà họ có thể làm tốt hơn và rẻ hơn. Kết quả là, người tiêu dùng khắp nơi được hưởng sự kết hợp tối ưu giữa chất lượng và giá cả, còn người lao động ở các quốc gia sản xuất được trả công cao nhất có thể cho sức lao động của mình. 
  • Tương tự, khi các công ty bảo hiểm được phép theo đuổi chiến lược kinh doanh và định giá như họ mong muốn, thì cạnh tranh trên thị trường sẽ tạo ra giải pháp tối ưu nhất về mặt phạm vi bảo hiểm và mức phí hợp lý.

Dĩ nhiên, tối ưu hóa phúc lợi xã hội không đồng nghĩa với đảm bảo mọi cá nhân đều thịnh vượng. Người lao động tại những quốc gia không có lợi thế so sánh có thể mất việc hoặc bị giảm lương nếu không được bảo vệ bằng hàng rào thuế quan.Và người mua bảo hiểm có thể phải trả phí cao hơn so với trường hợp các cơ quan quản lý áp trần giá.

Cách duy nhất để theo đuổi sự thịnh vượng toàn diện và “công bằng” tuyệt đối – không có kẻ thắng người thua – là để chính phủ can thiệp và áp đặt kết quả. Nhưng những nỗ lực như vậy chưa từng thành công, như đã trình bày ở trên và trong bản ghi chú Shall We Repeal the Laws of Economics? Nó không hiệu quả ở Liên Xô, và cũng không thể bảo vệ người dân California khỏi tác động kinh tế sau các đám cháy rừng.

Cách tốt hơn nhiều là chính phủ để thị trường vận hành tự do, đồng thời giải quyết các tác động phụ tiêu cực. Ví dụ: đảm bảo mạng lưới an sinh hỗ trợ thu nhập và đào tạo lại kỹ năng cho người mất việc, cũng như đảm bảo các doanh nghiệp và quốc gia không tham gia các hành vi cạnh tranh không lành mạnh. Việc lựa chọn giảm thiểu hậu quả theo cách này sẽ luôn đi kèm đánh đổi, nhưng đó là chi phí mà xã hội có thể cân nhắc và chấp nhận.

Tóm lại, nền kinh tế thị trường tự do không mang lại giải pháp hoàn hảo, nhưng mọi nỗ lực kiểm soát quá mức sẽ khiến tình hình trở nên tồi tệ hơn. Không thể có giải pháp nào làm hài lòng tất cả mọi người. Nhưng xét tổng thể, các quy luật kinh tế vẫn dẫn đến những giải pháp tốt nhất mà chúng ta có thể đạt được. 

Ngày 18 tháng 6 năm 2025

FinSuccess xin gửi bài viết đầy đủ anh chị có thể tham khảo: https://www.oaktreecapital.com/insights/memo/more-on-repealing-the-laws-of-economics 

 

Thanh Nhàn

Investment Analyst

Thanh Nhàn

"The individual investor should act consistently as an investor and not as a speculator." - Benjamin Graham

Bài viết liên quan

Cùng FinSuccess
xây dựng chiến lược

tài chính vững vàng

cho tương lai

Hãy để lại thông tin, đội ngũ FinSuccess sẽ sớm liên hệ để hỗ trợ bạn tốt nhất!

Họ và tên

Số điện thoại

Email

Bạn cần được tư vấn về dịch vụ nào?

Lời nhắn